Post stroke là gì? Các công bố khoa học về Post stroke
Post stroke, còn được gọi là hậu quả của đột quỵ, là tình trạng mà một người gặp sau khi trải qua một cơn đột quỵ. Đột quỵ là tình trạng khi một mảnh máu hoặc m...
Post stroke, còn được gọi là hậu quả của đột quỵ, là tình trạng mà một người gặp sau khi trải qua một cơn đột quỵ. Đột quỵ là tình trạng khi một mảnh máu hoặc mảnh não bị tắc nghẽn hoặc vỡ, gây ra sự gián đoạn hoặc hạn chế trong luồng máu tới một phần của não.
Post stroke có thể gây ra nhiều tác động và triệu chứng khác nhau, bao gồm: mất khả năng di chuyển một phần hoặc toàn bộ cơ thể, khó nói, khó nuốt, mất khả năng làm việc, mất trí nhớ, khó tập trung, khó tiếp thu thông tin mới, giảm cảm xúc và thay đổi tâm trạng, v.v. Các triệu chứng và tác động của post stroke có thể khác nhau tùy thuộc vào vị trí và mức độ tổn thương của não.
Các triệu chứng và hậu quả của post stroke có thể bao gồm:
1. Tình trạng liệt: Một phần hoặc toàn bộ cơ thể có thể bị liệt sau một cơn đột quỵ. Điều này có thể ảnh hưởng đến việc di chuyển, làm việc và thực hiện các hoạt động hàng ngày. Có thể mất khả năng đi, tự đứng, hoặc hoạt động cơ bản như việc mở nắp chai hoặc cầm cọ đánh răng.
2. Khó nói và khó nuốt: Một số người sau đột quỵ có thể gặp khó khăn trong việc nói chuyện hoặc nuốt thức ăn và nước. Điều này có thể dẫn đến khó khăn trong giao tiếp và tăng nguy cơ hạng thức.
3. Mất trí nhớ và khó tập trung: Các vùng não có thể bị tổn thương sau đột quỵ có thể ảnh hưởng đến khả năng ghi nhớ thông tin, tập trung và xử lý thông tin mới. Mọi chuyện từ việc nhớ cái tên của người khác đến việc ghi nhớ các sự kiện quan trọng có thể trở nên khó khăn.
4. Thay đổi tâm trạng và giảm cảm xúc: Sau khi trải qua đột quỵ, một số người có thể trở nên buồn bã, lo lắng hoặc khó chịu. Cảm xúc có thể thay đổi và có thể xảy ra các triệu chứng thần kinh như loạn thần hoặc trầm cảm.
5. Vấn đề về thị giác: Có thể xảy ra mất khả năng nhìn rõ, mất khả năng nhìn các vật cùng một lúc hoặc có rối loạn thị giác trong đột quỵ. Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng lái xe, đọc viết và tham gia các hoạt động hàng ngày.
6. Vấn đề về cảm thụ: Một số người sau đột quỵ có thể gặp khó khăn trong việc cảm nhận đủ nhiệt độ, đau hoặc kích thích. Điều này có thể dẫn đến nguy cơ bỏ qua những tình huống nguy hiểm hoặc không nhận ra những vết thương.
7. Vấn đề về hệ thống tiêu hóa và tiểu tiện: Post stroke cũng có thể gây ra các vấn đề về tiêu hóa và tiểu tiện, bao gồm rối loạn tiêu hóa, tiểu nhiều hoặc ít, hoặc thậm chí mất kiểm soát tiểu tiện.
Các triệu chứng và hậu quả của post stroke có thể biến đổi và khác nhau đối với từng người, phụ thuộc vào vị trí và mức độ tổn thương của não. Điều quan trọng là điều trị sớm và quản lý tình trạng sau đột quỵ để giảm các tác động và tăng cường chất lượng cuộc sống sau đột quỵ.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "post stroke":
Mặc dù các khái niệm ban đầu về liệu pháp tế bào gốc nhằm thay thế mô bị mất, nhưng bằng chứng gần đây đã gợi ý rằng cả tế bào gốc và tiền thân đều thúc đẩy phục hồi thần kinh sau thiếu máu cục bộ thông qua các yếu tố tiết ra giúp phục hồi khả năng tái cấu trúc của não bị tổn thương. Cụ thể, các túi ngoại tiết (EVs) từ các tế bào gốc như exosomes đã được đề xuất gần đây có vai trò trung gian cho các tác dụng phục hồi của tế bào gốc. Để xác định liệu EVs có thực sự cải thiện suy giảm thần kinh sau thiếu máu cục bộ và tái cấu trúc não hay không, chúng tôi đã so sánh có hệ thống các tác động của các túi ngoại tiết (MSC-EVs) từ tế bào gốc trung mô (MSCs) so với MSCs được truyền i.v. vào chuột trong các ngày 1, 3 và 5 (MSC-EVs) hoặc ngày 1 (MSCs) sau khi xảy ra thiếu máu cục bộ não tiêu điểm ở chuột C57BL6. Trong 28 ngày sau khi đột quỵ, các điểm yếu về phối hợp vận động, tổn thương não trên mô học, phản ứng miễn dịch trong máu ngoại vi và não, cùng những thay đổi về tạo mạch và sinh trưởng tâm thần kinh đã được phân tích. Cải thiện suy giảm thần kinh và bảo vệ thần kinh dài hạn kết hợp với tăng cường tạo mạch thần kinh và thần kinh đã được ghi nhận ở các con chuột bị đột quỵ nhận EVs từ hai dòng MSC nguồn gốc tủy xương khác nhau. Việc sử dụng MSC-EV mô phỏng chính xác các phản ứng của MSCs và kéo dài suốt giai đoạn quan sát. Mặc dù sự xâm nhập của tế bào miễn dịch não không bị ảnh hưởng bởi MSC-EVs, sự suy giảm miễn dịch sau thiếu máu cục bộ (tức là B-cell, tế bào giết tự nhiên và lymphopenia tế bào T) đã giảm bớt trong máu ngoại vi ở 6 ngày sau thiếu máu cục bộ, cung cấp môi trường ngoại vi thích hợp cho tái cấu trúc não thành công. Vì các nghiên cứu gần đây cho thấy MSC-EVs an toàn với con người, nghiên cứu này cung cấp bằng chứng lâm sàng quan trọng cần thiết cho các nghiên cứu chứng minh nhanh chóng trong bệnh nhân đột quỵ.
Cấy ghép các tế bào gốc trung mô (MSCs) cung cấp một phương pháp tiếp cận hỗ trợ quan trọng bên cạnh việc làm tan cục máu đông để điều trị đột quỵ thiếu máu cục bộ. Tuy nhiên, MSCs không tích hợp vào các mạng lưới thần kinh cư trú mà hoạt động gián tiếp, gây bảo vệ thần kinh và thúc đẩy tái sinh thần kinh. Mặc dù cơ chế MSCs hoạt động còn chưa rõ ràng, bằng chứng gần đây đã gợi ý rằng các túi ngoại tiết (EVs) có thể chịu trách nhiệm cho các tác dụng gây ra bởi MSCs dưới điều kiện sinh lý và bệnh lý. Nghiên cứu hiện tại đã chứng minh rằng EVs không thua kém MSCs trong mô hình đột quỵ động vật gặm nhấm. EVs gây bảo vệ thần kinh lâu dài, thúc đẩy tái sinh thần kinh và phục hồi chức năng thần kinh, và điều tiết các phản ứng miễn dịch sau đột quỵ ngoại biên. Ngoài ra, vì EVs dung nạp tốt ở người theo báo cáo trước đó, việc sử dụng EVs trong điều kiện lâm sàng có thể mở đường cho một định nghĩa điều trị đột quỵ mới và sáng tạo mà không có các tác dụng phụ dự kiến liên quan đến cấy ghép tế bào gốc.
Mục tiêu. Nghiên cứu hiệu quả của việc huấn luyện bằng thực tế ảo (VR) trên máy tính cho bàn tay bị liệt nửa người sau đột quỵ, sử dụng hệ thống cung cấp đào tạo tái giáo dục vận động lặp đi lặp lại và tái thu nhận kỹ năng. Phương pháp. Tám đối tượng trong giai đoạn mãn tính sau đột quỵ đã tham gia vào một chương trình kéo dài 3 tuần, sử dụng bàn tay bị liệt nửa người trong một loạt trò chơi máy tính tương tác trong 13 ngày huấn luyện, nghỉ cuối tuần và các kiểm tra trước và sau. Mỗi đối tượng tham gia huấn luyện khoảng 2 đến 2,5 giờ mỗi ngày. Các biện pháp đánh giá bao gồm các thay đổi trong các chỉ số đo trên máy tính về phạm vi chuyển động ngón cái và ngón tay, tốc độ ngón cái và ngón tay, phân khúc (khả năng di chuyển các ngón tay một cách độc lập), sức mạnh ngón cái và ngón tay, Bài kiểm tra Chức năng Tay của Jebsen, và kiểm tra Kinematic nhằm nắm bắt. Kết quả. Nhóm đối tượng đã cải thiện khả năng phân khúc ngón tay, phạm vi chuyển động và tốc độ của ngón cái và ngón tay, duy trì những tiến bộ này trong kiểm tra giữ lại sau một tuần. Chuyển giao các cải thiện này được chứng minh qua sự thay đổi trong Bài kiểm tra Chức năng Tay của Jebsen và sự giảm thiểu thời gian tổng thể từ đỉnh tốc độ tay đến lúc nâng vật từ bàn sau liệu trình trị liệu. Kết luận. Hiện tại, rất khó để cung cấp cường độ thực hành cần thiết cho sự tái tổ chức thần kinh và những thay đổi chức năng sau đột quỵ trong các mô hình cung cấp dịch vụ hiện nay. Các hệ thống bài tập máy tính có thể là một cách để tối ưu hóa thời gian của cả bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng. Dữ liệu trong nghiên cứu này bổ sung bằng chứng để đề xuất khám phá các công nghệ mới để tích hợp vào thực hành hiện tại.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10